Các hộ ở tập thể còn tìm cách tăng nguồn cung cấp chất đạm của gia đình bằng cách nuôi lợn hoặc gà công nghiệp. Từ nhà tắm cho đến góc bếp, sân vườn… đều được tận dụng khi có thể. Thế nên mới có chuyện vừa đi toilet vừa phải canh chừng gà mổ trên đầu hoặc người phải tắm chung với lợn.
Tùy theo cách chăm sóc của từng nhà, có những chú lợn nặng gần cả tạ và được nuôi theo kiểu bán lấy tiền. Lâu lâu đến kỳ “lên thớt”, sáng sớm chợt nghe một tràng éc éc… từ tầng trên xuống tầng dưới. Cũng có hộ lại chỉ nuôi lợn gà để cải thiện bữa ăn hàng ngày thôi.
Do không gian chật chội (không được phép cơi nới như bây giờ) nên không khí hơi ngột ngạt. Nhiều khi tắm xong, không biết có phải do chất lượng xà phòng hồi đó dở hay không mà người mình có mùi rất là… khó tả. Mà cũng có khi do xà phòng thật vì thời đó rất khó kiếm xà phòng tắm.
Văn hóa tinh thần
Mình không nhớ chính xác có phải thời đó tất cả các căn hộ ở tập thể Trung Tự đều được gắn một cái loa truyền thanh do Liên Xô sản xuất hay không. Chỉ nhớ rằng cả thời thơ ấu của mình gắn liền với cái loa đó. Loa chỉ phát theo thời điểm: buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Đến giờ vẫn không quên những giai điệu nhạc quen thuộc mở đầu các tiết mục như: Kể chuyện cảnh giác tối thứ 7, Phát thanh quân đội sáng sớm Chủ nhật hàng tuần, hayĐọc truyện đêm khuya hàng ngày.
Có thể do thời đó không có nhiều phương tiện truyền thông giải trí đa dạng như bây giờ nên nội dung phát thanh các chương trình này bao giờ cũng được người nghe rất tập trung cảm nhận. Nhạc điệu và giọng nói của phát thanh viên trong Kể chuyện cảnh giáccó những đoạn nghe rất hồi hộp. Nhạc điệu và giọng nói phát thanh viên trong Đọc truyện đêm khuyalại rất… tâm trạng.
Không biết có ai còn nhớ vào khoảng những năm 1980, lâu lâu có một đoàn chiếu bóng về chiếu phim phục vụ bà con trong khu tập thể. Nghe tin, buổi tối sau khi ăn cơm xong, khoảng 7h, mọi người rủ nhau đi thành đoàn, người cầm ghế, người mang quạt giấy ra tập trung tại bãi đất trống phía trước cổng trường cấp 1-2 Trung Tự xem phim.
Mọi người ngồi bệt dưới đất, trên dép hoặc trên ghế xem rất trật tự. Một số đứa trẻ cỡ tuổi mình khi đó lại trèo lên bờ tường trường Trung Tự để xem cho dễ vì chỗ ấy vừa cao hơn lại vừa gần màn hình hơn, cho dù không cẩn thận sẽ rách mông vì mấy cái mảnh chai cắm trên đó.
Có lẽ những bộ phim ấn tượng nhất với mình hồi đó là phim về 3 chàng ngự lâm pháo thủ, mụ phù thủy với cái cán chổi, Alibaba và 40 tên cướp. Thường phim chiếu được một nửa thì các chú chiếu phim sẽ cho nghỉ giải lao tầm 15 phút để cho máy nguội. Khung cảnh khi đó thật yên bình đúng kiểu trời thì trong, trăng thì thanh, còn gió thì rất là mát; không có tiếng xe chạy, cũng chẳng có tiếng nói chuyện điện thoại, chỉ có tiếng diễn viên trong phim và tiếng rè rè của máy chiếu.
Cuối năm 1976, cụ ông nhà mình sau chuyến đi vào Sài Gòn thăm họ hàng có mang về một chiếc tivi 12 inch đen trắng hiệu Sharp. Kể từ đó, hầu như các buổi tối cuối tuần, phòng khách nhà mình luôn đông hàng xóm đến xem phim truyền hình, cả người lớn lẫn trẻ con. Mình thích nhất là những lúc được thể hiện vai trò chủ nhà, được quyền cấp phép cho hay không cho vào xem đối với mấy đứa nhỏ tuổi hơn. Không biết có phải do tivi xịn hay do mắt của mình tốt mà ngồi xem cách khoảng 5m vẫn thấy rõ dù màn hình có 12 inch.
Rồi có giai đoạn nghe nói khu chuyên gia có đài phát sóng truyền hình Liên Xô, thế là mình tìm mọi cách bắt sóng. Do không có anten ngoài trời nên anten râu của tivi hầu như không bắt được. Thế là với chút kiến thức phổ thông về vật lý mới học trên trường, mình treo lên cái anten bộ phin pha cà phê bằng nhôm, cùng giấy bạc lấy từ vỏ bao thuốc lá. Kết quả hết sức khả quan, lâu lâu cũng nghe được tiếng vang vọng thì thầm và hình bóng mờ mờ ảo ảo của ai đó trên màn hình.
Mặc dù phải vừa xem lại vừa đoán, nhưng cũng rất phấn khích khi lần đầu tiên tivi nhà mình bắt được đài “Tây”. Sau đó một thời gian, có ông bạn tầng trên có ba đi công tác Liên Xô nên mang về một chiếc tivi màu cũng cỡ khoảng 12 inch. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời mình được biết thế nào là tivi màu dù hình ảnh lúc rõ lúc mờ và thấy màu nền là chủ yếu.
Xếp hàng mua lương thực và nhu yếu phẩm
Thời kỳ đó, việc xếp hàng không phải là vấn đề lớn mà mọi người phải quan tâm. Một trong những lý do có thể là do số lượng người mua và sản phẩm để bán không có nhiều. Gọi là đi xếp hàng mua gạo, rau, thịt, bánh mì, dầu hỏa… cũng không hoàn toàn chính xác vì lương thực và nhu yếu phẩm đa phần được nhà nước phân phối theo tem phiếu và người dân chỉ đơn giản là đi xếp để nhận hàng mà thôi.
Hồi đó căn hộ dưới đất góc nhà B4 được trưng dụng làm nơi phát bánh mì. Tầm gần trưa là có xe chở bánh đến, đậu ở ngoài đường trước cửa nhà B6. Từ đây, bánh mì được bốc xuống một “xe thùng” và đẩy đến nhà B4. Ở đây đã có một hàng dài người mà trong đó có không ít những đứa trẻ thay mặt bố mẹ đứng xếp hàng chờ nhận bánh.
Nếu như mình nhớ không lầm thì mỗi lần như vậy được nhận khoảng 5 cái bánh. Có hôm may mắn thì nhận được bánh còn nóng hổi như mới ra lò, còn ngược lại, cũng có hôm bánh nguội ngắt. Trung bình cứ 5 cái thì ít nhất có một cái vừa cháy lại vừa đen. Không những thế, những cái bánh mì cũng rắn rỏi như những người thợ làm ra nó đến nỗi đôi lúc mấy đứa trẻ còn sử dụng như một vũ khí để đánh nhau trong lúc mang bánh về nhà.
Hồi đó những đứa trẻ nào hay phải thay bố mẹ đi xếp hàng (vì ban ngày bố mẹ phải đi làm) thì sẽ chạm mặt nhau gần như thường xuyên
Thời kỳ đó, chỉ khi nào bị ốm mới có được cơ hội uống sữa ông Thọ thôi chứ lấy đâu ra sữa cô gái Hà Lan mà chấm với mút với bánh mì. Cứ bánh mì chấm với đường kính màu vàng khè ăn buổi sáng, cuối cùng, mình lớn được đến ngày hôm nay. Lâu lâu cũng có đôi lần bị ốm thật, thế là cụ ông mỗi sáng cho 2.000 đồng, ra ngay nhà ăn Kim Liên mua phở. Ăn khoảng 3 bát, hết ốm liền.
Cùng với nhà ăn Kim Liên, sau này có xây thêm cửa hàng lương thực Kim Liên - nơi chuyên “bán” gạo và thịt cá theo tem phiếu cho cả người dân khu tập thể Kim Liên lẫn khu tập thể Trung Tự. Có vài lần mình lĩnh nhiệm vụ xếp hàng mua gạo ở đó.
Nói đến thành ngữ “buồn như mất sổ gạo” thời bao cấp đó, lại nhớ đến chuyện có cậu bạn thân ở B1, thằng em đi xếp hàng mua gạo và làm mất sổ, về nhà mếu máo kể lại cho thằng anh. Thế là 2 anh em cùng ôm nhau khóc. Thời đó làm gì có chuyện xin cấp lại bản sao của sổ gạo. Những đứa trẻ nào hay phải thay bố mẹ đi xếp hàng (vì ban ngày bố mẹ phải đi làm) thì sẽ chạm mặt nhau hầu như thường xuyên tại các nơi đó.
Tương tự như vậy là chuyện xếp hàng mua dầu hỏa ở gần chợ Kim Liên, bên dưới cửa hàng mậu dịch. Hành trang mang theo là một cái can nhựa khoảng 5 hay 10 lít. Chưa kể đôi khi có người nhờ vả còn cầm theo cả một viên gạch để thay mặt thân chủ xếp trong hàng.
Nếu nói là xếp hàng mua bán thì chính xác có 2 nơi mình đã từng có “giao dịch”. Một là căn phòng đầu tiên tầng 1 đầu hồi nhà C1 có thời gian được trưng dụng làm nơi bán rau củ quả. Cứ buổi chiều đến, xe rau sẽ về, mọi người có thể chọn lựa rau và trả tiền trực tiếp. Thời nào cũng vậy, có quen biết vẫn hơn. Lúc ấy gia đình có chị người quen bán hàng ở đó, thế là lần nào muốn mua được rau ngon, chỉ cần nói trước cho chị một hôm là hôm sau chị ấy sẽ để dành riêng cho mình đến lấy, khỏi cần xếp hàng.
Rồi chuyện xếp hàng mua báo cũng ở phía bên hông nhà ăn Kim Liên. Lâu lâu mình cũng được cụ ông sai đi mua báo. Báo hồi đó chủ yếu là báo Nhân Dân. Hình như hồi đó 500 đồng một tờ báo. Sáng sớm tầm 7h đã có một hàng dài các cụ ông đứng xếp hàng ở trước ô bán báo nằm bên hông tòa nhà nhà ăn. Được cái ở đây không có vụ xếp gạch vì thường báo về đến rất đúng giờ và cũng thường được bán hết rất nhanh. Cũng may là mình chỉ bị sai đi mua báo vào mùa hè thôi chứ rơi vào mùa đông thì có mà "lên đường" sớm.
Chuyện điện, chuyện nước
A …a a a…! Khỏi cần phải hét lên và tận mắt nhìn cũng đủ hiểu là có điện rồi. Cả khu tập thể bừng sáng nhưng không đến nỗi ồn ào náo nhiệt như ở trên phố. Một tuần dễ điện bị mất đến 3-4 hôm. Riết rồi cũng quen dần với cuộc sống ngày có ngày không, quen dần với ánh sáng của bóng đèn dầu khi học bài.
Hồi đó cụ ông sắm được 2 cái đèn dầu to khủng khiếp. Mỗi lần thắp là sáng cả phòng khách, đứng ngoài đường còn nhìn thấy được. Tuy vậy, nó cũng đốt khá nhiều dầu hỏa và khói bốc lên đen cực kỳ. Vào mùa đông, ngồi học bài bên cái đèn dầu đó rất đã vì được sưởi ấm thêm từ cái nóng từ nó. Trái lại vào mùa hè, chả khác gì hành xác khi học bài. Không thể quên được hình ảnh bố với ngọn đèn dầu ngồi vá xe cho khách, nhất là vào những đêm gió mùa đông bắc. Rồi hình ảnh thầy Dậu, cô Hương một tay cầm phấn, một tay cầm đèn dầu, rọi theo từng dòng chữ trên bảng trong lớp học thêm Văn, Toán vào buổi tối.
Mùa hè nóng nực, sau khi tự học bài xong, mấy đứa gần nhà hay hẹn gặp nhau hoặc ngồi tám chuyện đâu đó hoặc đi loanh quanh trong khu. Có những đêm trời oi bức, cả đám cởi trần đi lang thang sang tận khu Kim Liên đến tận khuya mới về nhà. Gặp chỗ vòi nước công cộng nào vắng mà có nước là nhảy vào, mở vòi, té nước lên người cho mát.
Trời mùa hè nóng bức nên hầu như trên tay lúc nào cũng phải có hoặc quạt nan, hoặc quạt giấy, kể cả khi đi học. Có những đêm hè, đã nóng bức thì chớ lại còn không có điện, hầu như cả đêm trằn trọc không thể ngủ được vì nóng.
Mất điện cũng là lúc đám trẻ hay nghĩ ra nhiều trò tinh quái, như đi “sờ ve” chẳng hạn. Thời đó, cây to cổ thụ dọc hai bên các con đường trong khu Kim Liên và cả trong trường cấp 1-2 Kim Liên còn nhiều lắm. Thế nên các cặp đôi hay thường chọn những gốc cây để đứng tâm sự. Ở đâu có xe đạp dựng là biết ngay ở đó có người.
Trời thì tối đen như mực, cộng thêm mất điện toàn khu, đấy là những lúc mấy thằng rủ nhau đi “sờ ve”. Không có đèn pin, cũng chẳng có đèn đường, cứ thế vừa đi quanh gốc cây, bàn tay vừa mò mẫm dọc thân cây từ trên xuống gốc. May thì đụng nhẹ thì bắt được ngay con ve, còn không thì gạt phải con ve xuống dưới đất, và thế là lại phải tiếp tục mò mẫm mặt đất dưới gốc cây. Mà chả hiểu sao mấy thằng cứ nhè chỗ gốc cây nào có xe đạp dựng là đến kiếm ve ở chỗ đó.
Có một dạo, hết giờ tan tầm, về đến nhà là ngay lập tức mọi người gồng gánh xô, thùng từ tầng trên xuống tầng 1, hoặc xếp hàng đợi lấy nước ở vòi nước công cộng, hoặc xin nước ở nhà tầng 1. Không cần biết ông là ai, không cần biết anh làm ở đâu, Vụ trưởng, vụ phó hay chánh văn phòng, giám đốc nhà máy đều phải đi gánh nước hết.
Những nhà ở tầng 1 thường xây hẳn bể nước to để tích trữ nước. Từ đây, tình làng nghĩa xóm được gắn kết thêm thông qua tình yêu với nước. Sau khi xuất hiện máy bơm Liên Xô, dần dần một số hộ có điều kiện dòng dây từ tầng cao xuống thùng nước của mình đặt chỗ vòi nước ngay chân cầu thang. Từ đây, khu tập thể thêm một âm thanh mới lạ nữa: tiếng máy bơm nước rì rì... từ 4 rưỡi, 5 giờ chiều cho đến xẩm tối.
Đi qua những năm tháng, mỗi người đều mang theo mình vô vàn ký ức. Ký ức đó có thể là tình yêu quê hương cháy bỏng, một mảng mơ hồ, mộng mị của tình yêu đôi lứa, hoặc khoảng lặng nhớ về một người, một thời gian khó... Tất cả ký ức vui buồn ấy sẽ sống lại qua tuyến bài Hồi ức thế hệ 5X - 8X. VietNamNet mời độc giả thế hệ từ 5X đến 8X gửi chia sẻ về ký ức của mình đến email: [email protected]. Những bài có nội dung hấp dẫn, cảm động sẽ được đăng tải trên VietNamNet. Trân trọng cảm ơn! |
Độc giả Nguyễn Quang Vinh
Không biết từ khi nào cụm từ "phải đi đám cưới" được nhiều người sử dụng khi chia sẻ về việc bản thân nhận được thiệp hồng của ai đó. Đám cưới ngày nay không chỉ đơn thuần là ngày vui để họ hàng, người thân gặp gỡ chúc phúc cho cô dâu, chú rể mà còn trở thành một nghĩa vụ xã giao mà nhiều người phải tham gia dù trong lòng không thực sự cảm thấy thoải mái.
Anh Nguyễn Văn Thành (34 tuổi, Hà Đông, Hà Nội) chia sẻ, vào những giai đoạn cao điểm của mùa cưới anh nhận được tới 3 - 4 lời mời cưới một tuần. Có người cẩn thận tới gặp anh gửi thiệp, nhưng cũng có người chỉ gọi điện thoại.
Cô dâu, chú rể hầu hết là bạn bè, người thân hoặc họ hàng của anh Thành. Tuy vậy, cũng không ít lần, anh "vinh hạnh trở thành khách quý" của những người mới chỉ gặp một đôi lần.
Anh Thành kể, cách đây ít lâu, anh và nhóm bạn có tham dự một tour du lịch đi Hàn Quốc. Theo gợi ý của đơn vị lữ hành, mỗi người trong nhóm của anh rủ thêm một vài người bạn nữa ghép chuyến để được hưởng giá ưu đãi.
Cuối cùng, họ gom được một nhóm 10 người. Qua chuyến đi Hàn Quốc 5 ngày, anh Thành quen thêm vài người khác - là bạn của bạn mình. Vì có những bức hình chụp chung nên khi đăng tải lên mạng xã hội, đôi bên đã kết bạn Facebook với nhau.
Khi trở về, anh Thành không gặp gỡ những người đó thêm lần nào. Thi thoảng họ chỉ tương tác qua mạng xã hội bằng việc thả like, viết bình luận.
"Hai tháng sau chuyến đi du lịch, một cô gái trong nhóm đó đã nhắn tin qua Facebook mời tôi đi dự hôn lễ của cô ấy. Tôi khá bất ngờ vì quan hệ của chúng tôi không thân thiết tới mức cần đến đám cưới của nhau. Tôi nghĩ mình đi dự cũng dở nên đành viện cớ bận việc và chỉ gửi phong bì chúc mừng qua người bạn", anh Thành nhớ lại lần trở thành "khách quý" bất đắc dĩ.
Đang ở vào độ tuổi thanh niên nên anh Trần Thế Nhuận (27 tuổi, quê Hà Tĩnh) cũng tất bật tham dự các đám cưới của bạn bè. Tuy nhiên, ngoài những mối quan hệ từ bạn học cũ, bạn làm cùng công ty, anh Nhuận còn phát sinh một số đám cưới từ sở thích đam mê đá bóng của mình.
Chàng trai 27 tuổi kể: "Tôi là thành viên của một vài đội bóng và thường tham gia đá bóng giao hữu. Tại sân bóng, tôi có quen một số anh em và lưu lại Facebook của nhau. Đôi bên chỉ quan hệ xã giao nhưng khi cưới họ cũng gửi tin nhắn qua mạng mời tôi về quê họ để tham dự.
Họ nói rằng do chạy lại phần mềm điện thoại nên mất số điện thoại của tôi. Họ đành nhắn tin qua Facbook thay vì gọi điện. Thực chất chúng tôi còn chưa có số điện thoại của nhau".
Tiền mừng cưới trở thành "gánh nặng"
Chị Vũ Thị Vân (32 tuổi, Gia Lâm, Hà Nội) cũng cho hay, bản thân đã nhận được khoảng 4 - 5 lời mời từ những người bạn "qua đường" như thế. Thậm chí, có người từ hồi tốt nghiệp đại học, chị chưa gặp lại nhưng vì còn lưu số điện thoại nên họ vẫn gọi điện mời.
Có lần vì cả nể, chị cũng đến tham dự đám cưới của một người bạn mới quen. Nhưng đến nơi rồi chị như lạc vào một rừng người lạ bởi ngoài cô dâu (người mới gặp một đôi lần), chị không quen bất cứ ai khác. Ngồi cùng những người lạ, chị chẳng biết nói chuyện gì, ăn uống càng cảm thấy không thoải mái.
"Chính vì vậy, sau này khi nhận được lời mời cưới từ những người không mấy thân thiết, tôi sẽ cân nhắc thật kỹ xem có nên tới dự hay mừng cưới không. Đa phần tôi chỉ gửi khoảng 300 nghìn đồng chứ không tới dự. Tới dự đương nhiên tôi phải mừng 500 nghìn đồng, như vậy vừa tốn kém vừa không cần thiết", chị Vân nói.
Chị Vân cho biết, chị chỉ là nhân viên hành chính của một công ty. Thu nhập bình quân 12 triệu đồng/tháng. Nhiều tháng tiền mừng cưới trở thành "gánh nặng", ngốn tới một nửa số lương của chị. Chính vì vậy, nếu không tính toán cẩn thận, chị sẽ phải cắt giảm rất nhiều khoản chi tiêu khác trong tháng.
Đám cưới là dịp vui, mừng hạnh phúc trăm năm cho các cặp đôi. Tuy nhiên, đôi khi nó vô tình đem đến những trải nghiệm không mấy thoải mái cho khách mời vì những lời mời bất ngờ như vậy.
Liên quan tới vấn đề này, trao đổi với PV Dân trí, nhà nghiên cứu văn hóa - TS Nguyễn Hùng Vĩ, nguyên giảng viên Trường Đại học Khoa học và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, lâu nay chúng ta không có quy định cụ thể trong việc tổ chức đám cưới. Nhà nước chỉ khuyến khích tổ chức tiệc cưới đơn giản, văn minh, tiết kiệm.
Tuy nhiên, thực tế cũng có rất nhiều người tổ chức tiệc cưới rình rang với nhiều mục đích như khoe khoang, tự khẳng định mình… Cũng có nhiều người quan niệm đám cưới là "trả nợ miệng", là dịp để "thu hoạch".
Theo vị chuyên gia này, mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn tổ chức đám cưới theo ý mình vì đó là hoạt động thuộc về cuộc sống cá nhân của mỗi người. Tuy nhiên, ông cho rằng, đám cưới nên hướng đến sự thân thiện, thể hiện cái đẹp trong ứng xử và không nên mang tính vụ lợi.
Cũng theo TS Nguyễn Hùng Vĩ, dân gian có câu "ma chê cưới trách", khi có công to việc lớn thì tất cả mọi việc đều bối rối. Tâm lý cho rằng "thừa còn hơn thiếu" cũng khiến nhiều người thường mở rộng danh sách khách mời quá mức. Có người thì nghĩ rằng, mình không mời thì bạn bè sẽ trách. Dẫu là quen qua qua nhưng cũng có người nhớ đến mình.
Trong tình huống nhận được lời mời cưới từ những người không mấy quen biết, TS Nguyễn Hùng Vĩ cho rằng, người được mời có quyền tự do lựa chọn tham dự, gửi quà mừng hoặc không tham dự.
Song dù lựa chọn thế nào cũng nên ứng xử một cách có văn hóa. Trách móc hay giận dỗi sẽ vô tình lộ ra mình là người thiếu nghệ thuật ứng xử. Chẳng hạn, có thể gửi một lời chúc phúc qua tin nhắn hay qua điện thoại rồi viện cớ bận việc không thể đến. Không nhất thiết cứ phải gửi phong bì hay tiền mừng nếu bản thân không thấy cần thiết.
"Đôi khi vì công việc tôi cũng quên mất mình được mời dự đám cưới. Sau đó, tôi luôn gửi lời xin lỗi và hẹn sẽ gặp gỡ họ một dịp nào đó. Tôi cũng từng không đi đám cưới của những người không quen biết lắm. Tuy nhiên, tôi vẫn gửi tin nhắn chúc mừng họ", vị chuyên gia này chia sẻ.
Theo Dân trí
" alt=""/>Ngã ngửa với những pha mời cưới của cô dâu, chú rể 'chỉ biết mà không thân'Điều này để tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sáng tạo trong việc phát huy các giá trị của di sản văn hóa.
GS Trần Ngọc Đường bày tỏ băn khoăn, hiện nay di sản phái sinh được tạo tác từ quá trình nghiên cứu và sáng tạo dựa trên di sản văn hóa thuộc về cộng đồng hay thuộc về người nghiên cứu và sáng tạo; nghiên cứu, sáng tạo với tỷ lệ bao nhiêu thì được đăng ký bản quyền.
Những vấn đề còn gây tranh cãi vì chưa có khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của những người nghiên cứu, sáng tạo phát huy giá trị của di sản văn hóa. Vì vậy, Luật Di sản văn hóa lần này phải có những quy định rõ ràng về vấn đề này.
Ngoài ra, ông cũng nêu thực tế hiện nay, việc bắt tay giữa di sản văn hóa và công nghệ đang thúc đẩy sự hình thành các khái niệm mới về di sản số, di sản phái sinh… Tuy nhiên nội dung này cũng chưa được luật hóa để hình thành chính sách pháp lý phù hợp, khuyến khích phát triển các sản phẩm số dựa trên di sản.
Do đó, những người nghiên cứu, sáng tạo trong lĩnh vực này cho rằng nếu nghiên cứu đưa di sản số trở thành một khái niệm chính thức trong Luật Di sản văn hóa và có các quy định về chính sách đầu tư, chính sách về bản quyền… sẽ thúc đẩy người làm công nghệ có sản phẩm số hóa mang tính ứng dụng cao trong đời sống để di sản văn hóa thật sự phát huy giá trị.
GS Trần Ngọc Đường cũng lưu ý, dự thảo luật nặng về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa. Còn sự thụ hưởng, trách nhiệm của công dân và cộng đồng dân cư đối với các giá trị văn hóa dường như chưa được chú ý đúng mức.
Ông phân tích thêm, quản lý và bảo vệ là để được thụ hưởng và gắn với trách nhiệm, không thể gộp chung quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân đối với di sản văn hóa vào chung một điều.
Mỗi chủ thể có quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm riêng của mình nhất là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sở hữu di sản văn hóa hoàn toàn khác với người không phải là chủ sở hữu.
Vì vậy, theo ông Đường, dự luật cần phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không phải là chủ sở hữu di sản văn hóa.
Nảy sinh những hiện tượng tự ý tu sửa di tích, tiếp nhận hiện vật đồ thờ
Ông Trương Minh Tiến, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO TP Hà Nội quan tâm đến vấn đề sở hữu di sản văn hóa, sở hữu toàn dân, sở hữu chung và riêng.
Theo ông Tiến, di sản văn hóa cũng là một tài sản, được xác lập quyền sở hữu có người đại diện quyền sở hữu. Riêng hình thức sở hữu toàn dân về di sản văn hóa, nhất là về di tích đình, chùa, miếu… là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân ở các làng, thôn hiện chưa được xác định rõ người đại diện.
Vì vậy, ông Tiến cho rằng, sửa đổi luật lần này cần phải quy định rõ người đại diện sở hữu. Trên thực tế, đang có sự lúng túng ở cơ sở về quản lý, bảo vệ, tu bổ, phát huy giá trị ở nhiều địa phương, nảy sinh những hiện tượng tự ý tu sửa di tích, tiếp nhận hiện vật đồ thờ.
Ngoài ra, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO TP Hà Nội cũng kiến nghị các ngành chức năng cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn việc xác định quyền sở hữu, mua bán cổ vật. Làm tốt được việc này thì sẽ góp phần giảm tình trạng mất cắp hiện vật và cổ vật ở các di tích.
TS. Nguyễn Xuân Năng, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cũng kiến nghị nên phân định cấp độ khác nhau giữa di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia để có ứng xử phù hợp.
Ông Năng thông tin, hiện mới có 300 hiện vật là bảo vật quốc gia. Chính vì vậy phải coi bảo vật quốc gia là tài sản đặc thù, có giá trị đặc biệt và thuộc loại hiện vật quý hiếm, không cho phép kinh doanh cả trong và ngoài nước.
Còn với cổ vật, cấm kinh doanh ở nước ngoài nhưng nên cho phép mua bán, kinh doanh trong nước. Bởi vì, hiện nay những phiên đấu giá cổ vật diễn ra rất nhiều ở các địa phương, nếu quy định cấm kinh doanh tất cả thì chưa hợp lý.
Ông Năng cũng đề xuất, với di vật không phải là những hiện vật thuộc dạng quý hiếm hay có giá trị tiêu biểu hay đặc biệt tiêu biểu như cổ vật và bảo vật quốc gia có thể cho phép mua bán cả trong và ngoài nước. Như vậy các bảo tàng mới có cơ hội sưu tầm được nhiều hiện vật phục vụ trưng bày giới thiệu cho công chúng.